Thử đặt vấn đề về người bào chữa, luật sư khi nó đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn=>tùy biện pháp mà quyền này đc đảm bảo, mà quyền này nên đc thực thi=>nên ápdụng cho tại ngoại!
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
Hướng tới hội thảo khoa học ” Bộ luật tố tụng
hình sự – những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung”
THAM LUẬN
QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Luật sư. Nguyễn Văn Chiến
Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội
I. Mục Đích
Mục đích quan trọng của việc sửa đổi BLTTHS
2003 lần này là đề cao trách nhiệm và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các
cơ quan và người tiến hành tố tụng, nhất là xác định trách nhiệm cụ thể của
từng chức danh tố tụng, phân định rõ thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố
tụng nhằm nâng cao trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Đồng thời xác
định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Hay nói cách
khác, cần phải tìm ra nguyên nhân những quy định này của BLTTHS vì sao đã có
thực tiễn áp dụng hơn 5 năm qua nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của những
Nguyên tắc cơ bản được quy định cụ thể tại Chương IV Bộ luật nhằm tìm ra giải
pháp khắc phục trong lần sửa đổi lần này.
Với ý nghĩa quan trọng đó, chúng tôi rất ủng
hộ cuộc tọa đàm của Ban học tập Đoàn luật sư Hà Nội về chủ đề: “Quyền và nghĩa
vụ của người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng hình sự phục vụ việc góp ý
sửa đổi Bộ luật TTHS 2003″. Hy vọng cuộc tọa đàm sẽ tập trung được trí tuệ,
kinh nghiệm quý báu của các diễn giả luật sư để góp thêm tiếng nói quan trọng
vào công tác cải cách tư pháp hiện nay của Đảng và Nhà nước ta.
II. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bào
chữa.
Trong tham luận này, chúng tôi xin đóng góp
một vài ý kiến về quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bào chữa.
Trong 15 điều của Chương III về Người tiến
hành tố tụng, chỉ có một điều quy định về trách nhiệm của Cơ quan tiến
hành tố tụng giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người
tham gia tố tụng. 14 điều còn lại, nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ hơn các
quyền của người tham gia tố tụng, góp phần nâng cao trách nhiệm của cơ quan
tiến hành tố tụng. Từ khi những quy định này được sửa đổi bổ sung những quy
định cũ còn thiếu và chưa đầy đủ của BLTTHS 1988 nhằm nâng cao vị thế và vai
trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự nhưng thực tế còn nhiều bất cập do
không có cơ chế đảm bảo giám sát thực thi những quy định này của luật. Thực tế
hơn 5 năm thi hành Bộ luật TTHS nhưng cho đến nay các ngành hữu quan vẫn chưa
ban hành được một thông tư liên tịch để đảm bảo sự hướng dẫn thống nhất trong
qúa trình thực thi luật mặc dù nhà nước cũng đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc chi
phí cho các cuộc Hội thảo để bàn về dự thảo thông tư liên tịch này nhưng không
thành. Từ thực tế ấy, tiến tới góp ý cho việc sửa đổi Bộ luật lần này, cần có
quy định cụ thể hơn trách nhiệm của các cơ quan THTT và người THTT, theo đó
quyền của luật sư và những người tham gia tố tụng khác sẽ được quy định cụ thể
hơn và có tính pháp lý bắt buộc cao hơn.
1. Các
nội dung sửa đổi, bổ sung liên quan đến người bào chữa:
Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
(BLTTHS) quy định người bào chữa có thể là: (a) Luật sư; ((b) Người đại diện
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; và (c) Bào chữa viên nhân dân.
Như vậy, về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân
dân và Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ
thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên,
trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận tư
cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa được
hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp
gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
họ giống hay khác luật sư ở mức nào?!
Mặc dù có một số người tham gia với tư cách
bào chữa viên nhân dân có những đóng góp nhất định trong việc bảo vệ quyền lợi
cho bị can, bị cáo là thành viên tổ chức Mặt trận, nhưng nhìn chung chất lượng
hành nghề của phần đông những người này không cao, gặp rất nhiều cản ngại,
vướng mắc do những hạn hẹp về kiến thức pháp luật, lại không được đào tạo
chuyên sâu về các kỹ năng hành nghề trong tranh tụng vụ án hình sự, không được
tập sự trong các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp. Thực tiễn xét xử
những người này tham gia tố tụng rất hạn chế, hãn hữu mới có người được Tòa án
chấp nhận tham gia. Trong giai đoạn điều tra, truy tố thì hoàn toàn vắng bóng
họ, vì thực tế luật sư tham gia còn rất khó khăn. Do đó, theo quan điểm của
chúng tôi, chế định bào chữa viên nhân dân và người khác đã hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của nó. Hiện nay, cùng với việc thực thi Luật Luật sư năm 2006,
Liên đòan luật sư Việt Nam ra đời đã khẳng định sự lớn mạnh và vị thế của đội
ngũ luật sư Việt Nam, hướng tới việc xây dựng một đội ngũ luật sư chuyên nghiệp
thực hiện các phạm vi hành nghề tư vấn, tranh tụng và cung cấp các dịch vụ pháp
lý phủ kín các mặt của đời sống xã hội và đời sống tư pháp, nên chăng cần xem xét lại và bỏ chế
định bào chữa viên nhân dân là người bào chữa trong BLTTHS sửa đổi, bổ sung sắp
tới. Các nhà lập pháp cần tập trung quy định có hiệu lực về
hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự vào chủ thể tư pháp duy nhất có đủ
phẩm chất, kỹ năng và đạo đức hành nghề là luật sư. Điều đó cũng phù hợp với xu
thế phát triển khách quan của nghề luật sư và chủ trương cải cách tư pháp ở
Việt Nam
hiện nay.
-
Quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Các điều 48,49, 50), cần quy định cụ
thể về quyền của họ được giải thích quyền có luật sư ngay khi bị bắt và có
quyền im lặng khi không có sự tham gia của luật sư bào chữa.
-
Quyền của người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi Quyết định tạm giữ, khởi
tố bị can và được ghi chép, sao
chụp tài liệu cần thiết cho việc bào chữa; xem các biên bản về
hoạt động tố tụng khi có mặt của họ và xem các quyết định tố tụng có liên quan
đến người mà họ bào chữa; được thông báo trước về thời gian,địa điểm lấy
lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người thân
thích của họ cũng như những cơ quan tổ chức nếu không thuộc bí mật Nhà nước
hoặc bí mật công tác (các
điều 56, 58, 65).
Vấn đề từ chối người bào chữa được quy định
tại đoạn 2 khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 cần hoàn thiện thêm vì quy định như
vậy còn có bất cập, không hợp lý. Việc không phân biệt quyền từ chối người bào
chữa của hai nhóm đối tượng được quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 điều
luật này là một sự không chặt chẽ về mặt lý luận. Đối tượng được quy định tại
điểm a hoàn toàn khác với đối tượng quy định tại điểm b. Những đối tượng được
quy định tại điểm a nhận thức được đúng đắn và đầy đủ hành vi từ chối người bào
chữa của mình và họ biết được khả năng và hậu quả có thể xẩy ra khi họ từ chối
người bào chữa. Và vì vậy để cho họ có quyền chủ quan tuyệt đối từ chối người
bào chữa là hợp lý.
Còn những đối tượng được quy định tại điểm b
là những đối tượng chưa đủ trình độ phát triển về thể chất cũng như tinh thần
hoặc là những người bị khiếm khuyết về thể chất hoặc khiếm khuyết về tâm thần
thì liệu họ có nhận thức được đầy đủ và đúng đắn về hành vi từ chối người bào
chữa của mình hay không?
Với những ý kiến nói trên, tôi cho rằng cần
phải sửa đổi, bổ sung đoạn 2 khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 như sau: “Những trường hợp được quy định tại
điểm a khoản 2 điều này sau khi luật sư tham gia bào chữa bị can, bị cáo vẫn có
quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối luật sư bào chữa. Còn đối với những trường
hợp được quy định tại điểm b khoản 2 điều này thì bị can, bị cáo và đại diện
hợp pháp của họ sau khi luật sư tham gia bào chữa vẫn có quyền yêu cầu thay đổi
luật sư bào chữa và nếu họ từ chối luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng phải
lập biên bản ghi rõ lý do từ chối trước khi quyết định”.
Bên cạnh đó cần mở rộng phạm vi bào chữa bắt
buộc đối với bị can, bị cáo bị xử lý về tội có khung hình phạt lên đến 20 năm
tù.
Về Điều 58 (quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa)
Hiện nay Bị cáo phản cung với lý do bị bức
cung, ép mớm, nhục hình… là vấn đề rất bức xúc trong các phiên tòa ở Việt Nam , làm giảm
uy tín của cơ quan điều tra, truy tố. Chủ tọa cắt không cho họ nói thì bị xem
là mất dân chủ, không khách quan… Sở dĩ có tình trạng trên một phần là do Bộ
luật tố tụng chưa có quy định cơ chế cứng tạo điều kiện cho luật sư tham gia từ
giai đoạn điều tra, có mặt tại các buổi hỏi cung bị can. Hầu hết quá trình điều
tra luật sư chỉ được tham gia một vài buổi lấy lệ, đa số các buổi hỏi cung khác
không có mặt luật sư. Về nguyên tắc, khi luật sư tham gia đã được cấp giấy
chứng nhận người bào chữa và có văn bản đề nghị được tham gia tất cả các buổi
hỏi cung và các hoạt động điều tra khác thì những hoạt động này bắt buộc phải
có luật sư mới có giá trị pháp lý. Nhưng thực tế Bộ luật TTHS hiện hành có quy
định rất mâu thuẫn và tạo ra những rào cản. Ví dụ: Luật sư muốn hỏi bị can phải
được điều tra viên đồng ý. Phiên tòa xét xử trẻ vị thành niên không có luật sư
bào chữa thì phải hoãn, bản án tuyên trong điều kiện đó thì phải hủy, nhưng bản
cung buộc tội ghi lời khai của bị can vị thành niên vắng mặt luật sư (mặc dù
Điều 305 BLTTHS quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định luật sư) nhưng
họ không thực hiện hoặc tìm cách bảo bị can viết đơn từ chối luật sư trong khi
họ chưa hề thực hiện Điều luật là chỉ định luật sư thì bản cung lại được chấp
nhận là hợp pháp, Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng vẫn có giá trị pháp lý
buộc tội. Tôi nghĩ đây là lỗ hổng lớn mà lần sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự
tới đây phải đặc biệt quan tâm, giải quyết thấu đáo.
Để khắc phục, tôi cho rằng luật cần chi tiết
theo hướng ngoài điểm điều luật đã quy định điều tra viên thông báo cho luật sư
thời gian, địa điểm hỏi cung bị can; cách thức trao đổi, liên hệ để thông báo
với luật sư, những nguyên tắc và trách nhiệm bảo mật thông tin điều tra. Khi
tham gia hỏi cung, luật sư được hỏi sau mỗi vấn đề, nội dung điều tra viên hỏi.
Luật sư có quyền giải thích pháp luật cho bị can về quyền trả lời hoặc không
trả lời vấn đề điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền phản đối câu hỏi mớm cung,
bức cung của điều tra viên; xem xét và có ý kiến về nội dung biên bản hỏi cung
có đúng nội dung trả lời của bị can hay không; xác định tình trạng sức khỏe và
tâm thần của bị can khi hỏi cung. Điểm e khoản 2 Điều 58 cần bổ sung theo tinh
thần: luật sư có quyền gặp riêng làm việc với người bị tạm giữ,bị can, bị cáo
khi cần thiết. trong trường hợp đặc biệt, một số tội cụ thể luật sư có quyền
làm việc với bị can trong tầm nhìn nhưng không trong tầm nghe của cán bộ tố
tụng. Không bị hạn chế về số lượng lần gặp và thời gian gặp chứ không
phải quy định chung chung là được gặp để tránh những sự gây khó khăn từ phía cơ
quan và người thi hành tố tụng chỉ cho gặp một cách hình thức và hạn chế thời
gian được gặp.
Cần bổ sung quy định lời khai của bị can
trong quá trình điều tra, truy tố mà không có sự tham gia của luật sư thì không
được công nhận là chứng cứ. Sự bổ sung này hoàn toàn khả thi trong điều kiện
hiện nay của nước ta. Ở những nước có nền dân chủ tư pháp phát triển, bị can,
bị cáo có quyền từ chối cung khai nếu vắng mặt luật sư. Sự có mặt của luật sư
trong các buổi lấy cung có 2 ý nghĩa: giám sát, không để xảy ra việc mớm cung,
bức cung, nhục hình; và không để xảy ra tình trạng phản cung, bác lời khai tại
cơ quan điều tra, viện kiểm sát bởi việc lấy cung đã có người thứ ba chứng
kiến.
Để quy định về nghĩa vụ của người bào chữa
hoàn chỉnh hơn, tôi cho rằng cần bổ sung vào khoản 4 của Điều 58 cụm từ “nếu
tiết lộ bí mật điều tra và” vào sau cụm từ “người bào chữa” nhằm đảm bảo cho
việc giữ bí mật điều tra mà người bào chữa biết được khi tham gia tố tụng. Điều
này dẫn tới tính khả thi của sự cho phép người bào chữa tham gia sớm hơn trong
các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Nếu vẫn
quy định chung chung là không được tiết lộ bí mật điều tra mà không kèm theo
quy định khả năng áp dụng chế tài nếu có sự vi phạm thì cơ quan điều tra e ngại
và cho việc giữ bí mật điều tra là cái cớ để không tạo điều kiện luật sư tham
gia làm cho quy định đó thiếu tính khả thi.
Luật không qui định cụ thể cơ quan tố tụng
phải chịu chế tài thế nào nếu không tạo điều kiện cho luật sư hành nghề nên
nhiều quyền của người bào chữa không được thực hiện và hầu như bị vi phạm. Luật
cần quy định các chế tài cụ thể đối với các hành vi cản trở của ĐTV cũng như CQ
ĐT đối với sự tham gia của luật sư.
2. Một vài
nhận xét
Sẽ là không quá nếu nói rằng những điều luật
“chết” trong BLTTHS hiện hành về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa sẽ được
làm sống lại với những sửa đổi bổ sung cụ thể hơn đo là thêm nôi dung ghi nhận
tính pháp lý từ khi người bào chữa tham gia tố tụng với đầy đủ các thủ tục giấy
tờ theo quy định tại Điều 27 Luật Luật sư thì việc hỏi cung bị can chỉ có giá
trị pháp lý khi có luật sư tham dự. Những hoạt động tố tụng khác cơ quan Tiến
hành tố tụng không được từ chối sự tham gia của lật sư khi luật sư có yêu cầu
được tham gia. Như vậy NBC sẽ có “đất” ngay trong Luật để thực hiện quyền và
nghĩa vụ cao cả của mình là bảo vệ pháp chế và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Tuy nhiên, một sự sửa đổi, bổ sung ” cơ bản
và toàn diện ” những quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa như phạm
vi, mục đích, yêu cầu của người tham gia tố tụng là luật sư chúng ta dều xuất
phát từ thực tiễn tố tụng nên cần phải góp ý, phân tích một cách khoa họ, đầy
đủ cả về lý luận và thực tiễn để chứng minh rằng người bào chữa có vai trò rất
quan trọng trong tố tụng hình sự, họ là một mắt xích quan trọng trong cơ chế
giám sát hoạt động tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng, là người
giúp cho chế độ dân chủ trong một xã hội văn minh, tiến bộ được thực thi, giúp
cho quyền con người được tôn trọng, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp
quyền của chúng ta. Điều này là khẳng định thống nhất ý kiến, quan điểm của
giới luật sư nói chung và đường lối thống nhất xuyên suốt trong nội dung cải
cách tư pháp mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra. Nếu thực tế chúng ta chưa thấy
hết được vai trò quan trọng của luật sư là tranh tụng để đảm bảo quyền cơ bản
của bị can, bị cáo nhằm tránh oan sai và hạn chế vi phạm trong hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng thì nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế và xây dựng
thành công nhà nước pháp quyền của giới luật sư chúng ta sẽ không thể hoàn
thành.
Tuy nhiên còn có nhiều ý kiến cho rằng, việc mở rộng các quyền của người bào
chữa sẽ gây nhiều “khó khăn” cho các cơ quan tiến hành tố tụng? Theo
quan điểm của chúng tôi, điều đó chỉ đúng một phần nhỏ khi ở phương diện là
người tiến hành tố tụng năng lực và trình độ còn hạn chế ở mấy năm trước khi
sửa đổi BLTTHS năm 2003. Nay để đáp ứng yêu cầu cải cách đồng bộ hệ thống các
cơ quan tư pháp thì đội ngũ cán bộ tư pháp đã được tăng cường về năng lực
chuyên môn và nhận thức nghề nghiệp để đáp ứng xu thế hội nhập của đất nước.
Đến nay phải nói rằng vấn đề này không còn là hạn chế không thể khắc phục mà
chúng ta phải coi đó là những “khó khăn cần thiết” để
bảo đảm một nền tư pháp trong sạch, góp phần chống oan sai trong điều tra, truy
tố, xét xử các vụ án hình sự, và chính ý nghĩa và mục đích lớn lao đó thì chúng
tôi cho rằng từ việc mở rộng quyền của người bào chữa ở lần sửa đổi, bổ
sung Bộ luật TTHS năm 2003 thì nay cần quy định thêm cơ chế đảm bảo quyền ngay
trong luật bằng cách quy định sự tham gia của luật sư là bắt buộc. Quy định này
sẽ khắc phục sự phân biệt và hướng dẫn không bình đẳng của mỗi cơ quan THTT về
việc đảm bảo quyền của luật sư trong trường hợp luật sư mời khác luật sư
chỉ định. Cần phải nhìn nhận một thực tế tích cực là có sự tham gia của luật sư
trong các hoạt động tố tụng thì người THTT phải thận trọng và kỹ càng hơn trong
mọi hoạt động của mình. Mặt khác, luật sư là người hiểu luật, thông thạo về tố
tụng nên sẽ là nhà “tư vấn” quan trọng cho cơ quan và người THTT mỗi khi họ
“làm theo thói quen” hoặc do quá bận mà “lỡ quên” quy định của BLTTHS mà không
thực hiện đúng trình tự bắt buộc của quy trình tố tụng. Như vậy, sự sửa đổi ,
bổ sung theo hướng phân tích trên sẽ là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cơ quan
và người tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình đồng thời đảm bảo
quyền của người tham gia tố tụng.
Tuy nhiên, Bộ luật TTHS hiện hành vẫn còn hạn
chế quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. Quy định của luật hiện hành cho
phép luật sư chỉ thu thập chứng cứ từ người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo
và những người thân thích của họ; từ cơ quan, tổ chức nếu không thuộc bí mật
quốc gia, bí mật công tác. Nhưng thực tế chứng cứ không chỉ tồn tại ở những
người và các cơ quan, tổ chức nêu trên mà còn tồn tại ở những người khác có lưu
giữ hoặc biết về những tình tiết liên quan có lợi cho họ.
Bộ luật quy định người bào chữa có quyền có
mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và
nếu được điều tra viên đồng ý thì được hỏi những người này là quy định quyền
nhưng không đảm bảo quyền cho luật sư. Vì vậy cần quy định luật sư tham gia hỏi
cung được hỏi bị can và những người khác (nếu là đối chất) sau khi cán bộ điều
tra đã hết câu hỏi như trình tự hỏi tại phiên tòa là phù hợp. Thực tế hiện nay
Điều 58 BL TTHS hiện hành đã quy định quyền của người bào chữa có quyền có mặt
trong các hoạt động điều tra khác ” quyền có mặt..” này của người bào chữa chỉ
là người “chứng kiến” nhưng cũng không được đảm bảo. Vậy tại sao sự “chứng
kiến” của luật sư lại khó khăn như vậy trong khi luật sư để sẵn sàng tham gia.
Rõ ràng khi quy định cho luật sư quyền này nhà làm luật phải xuất phát từ
nguyên tắc chung là đảm bảo quyền của bị can trong mọi hoạt động và mọi giai
đoạn tố tụng họ đều có quyền có luật sư. Đồng thời sự có mặt của luật sư nhằm
đảm bảo hạn chế sự vi phạm tố tụng của cơ quan THTT dù ở bất cứ giai đoạn nào.
Bộ luật TTHS 2003 đã mở rộng quyền của người
bào chữa nhưng những quy
định đảm bảo cho các quyền ấy được thực hiện trên thực tế vẫn chỉ là lý thuyết.
Điều 62 quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng giải thích và
bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng và cả Chương
XXXV quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự chủ yếu vẫn chỉ là những quy định về thủ tục, chưa
có những chế tài cụ thể xử lý những người tiến hành tố tụng cố ý không thực
hiện các yêu cầu, kiến nghị hợp pháp đó của người bào chữa. Những
quy định chế tài này không
chỉ chỉ là những “quy định ngành” chỉ những người tiến hành tố tụng biết mà cần
phải được quy định cụ thể trong BLTTHS để những người tham gia tố tụng cũng
biết và thực hiện vai trò giám sát của mình một cách hiệu quả hơn.
Chúng ta đã có Nghị Quyết số 388 và nay đã
được cụ thể hóa vấn đề bồi thường oan sai vào Luật bồi thường nhà nước. Vậy
những vấn đề do cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực thi đầy đủ
trách nhiệm của mình dẫn đến hồ sơ phải trả đi trả lại, phiên tòa hoãn, hủy kéo
dài gây tốn kém, thiệt hại đến tài sản của nhà nước, quyền lợi của bị can và
luật sư thì trách nhiệm thế nào?
Tóm lại, với những nội dung nêu trên mới chỉ
là một phần nhỏ những bất cập trong thực tiễn áp dụng BL TTHS trong 5 năm qua
liên quan đến quyền của luật sư và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Chúng tôi mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện Bộ
luật tố tụng hình sự của Việt Nam trong thời gian tới, đảm bảo nền tư pháp Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Xin cám ơn quý vị đã chú ý lắng nghe!
Nguồn: Theo luatsuhanoi.vn
QUYỀN CỦA LUẬT SƯ KHI CẦN GẶP GỠ BỊ CAN, BỊ
CÁO ĐANG BỊ TẠM GIAM BỞI MỘT VỤ ÁN KHÁC – NHỮNG VƯỚNG MẮC VÀ HƯỚNG
GIẢI QUYẾT
Luật sư Lê Trung Sơn
Văn phòng luật sư Việt Tín
Trong
vụ án hình sự, luật sư tham gia với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị
cáo. Theo đó, luật sư được thực hiện những quyền theo quy định của pháp luật,
trong đó có quyền: “Gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam”.
Điều này sẽ được thực hiện khi luật sư có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật như: có Giấy chứng nhận bào chữa của cơ quan tố tụng, xuất trình thẻ luật
sư. Đó là trường hợp đối với bị can, bị cáo chỉ phạm một tội, bị tạm giam bởi
lệnh tạm giam của cơ quan tố tụng đang tiến hành của vụ án đó. Cơ quan tiến
hành tố tụng này là người ra lệnh tạm giam bị can, bị cáo và cũng là người cấp
giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư nên khi luật sư xuất trình giấy chứng nhận
bào chữa cho cơ quan công an trại giam thì bộ phận nghiệp vụ sẽ dễ dàng tìm
được hồ sơ của bị can bị cáo và thực hiện thủ tục cho luật sư gặp bị can, bị
cáo. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít trường hợp bị can, bị cáo phạm nhiều
tội và việc bị bắt tạm giam thì chỉ có một cơ quan tố tụng tiến hành, như vậy
sẽ xảy ra tình huống, bị can, bị cáo bị cơ quan tố tụng của địa phương hoặc cấp
tố tụng này bắt và ra lệnh tạm giam vì tội A nhưng trong quá trình tạm giam thì
bị cơ quan tố tụng của địa phương khác hoặc cấp tố tụng khác khởi tố và truy tố
về tội B. Như vậy, luật sư tham gia bào chữa cho bị cáo ở tội B khi được cơ
quan tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa có được gặp gỡ bị can, bị cáo đang bị
tạm giam bởi tội A hay không?
Một
ví dụ điển hình mà thực tế luật sư đã gặp phải như sau:
Phạm
Văn M có hành vi “Cố ý gây thương tích” bị Công an TP H khởi tố, bắt tạm giam.
Trong quá trình bị tạm giam, M bị cơ quan tố tụng quận Đ khởi tố và truy tố về
tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Gia đình M đã mời luật sư bào chữa cho M
về tội mua bán trái phép chất ma tuý. Luật sư đã liên hệ với Toà án quận Đ để làm
thủ tục bào chữa cho bị cáo và được toà án cấp giấy chứng nhận bào chữa. Sau
khi có giấy chứng nhận bào chữa, luật sư đã đến liên hệ gặp bị cáo ở trại tạm
giam. Tại đây, sau khi tra cứu hồ sơ, cán bộ trại giam cho biết: không có bị
can, bị cáo nào tên M bị tạm giam về tội mua bán trái phép chất ma tuý cả. Sau
một hồi kiểm tra thì cán bộ trại giam mới cho biết cơ quan trại giam chỉ được
lệnh giam M về tội “Cố ý gây thương tích” và quyết định tạm giam được ban hành
bởi VKS thành phố H và như vậy, nếu không có giấy chứng nhận bào chữa của VKS
thành phố H cấp thì trại giam không thể giải quyết cho luật sư gặp được bị cáo.
Đem vướng mắc này trình bày với lãnh đạo VKS thành phố H thì luật sư chỉ nhận
được sự chia sẻ, cảm thông mà không có hướng giải quyết bởi “Luật không quy
định và không có văn bản cụ thể hướng dẫn về vấn đề này”. Quan điểm của VKS cho
rằng, theo công văn đề nghị của Toà án quận Đ thì VKS đã ra văn bản chấp thuận
cho Toà án quận Đ được trích xuất bị cáo để xét xử (theo các cơ quan tố tụng
thì đây là trường hợp mượn bị can, bị cáo) do vậy về nguyên tắc trong thời gian
chuẩn bị xét xử của toà án, toà được toàn quyền trích xuất bị cáo để phục vụ
cho công tác tố tụng, chính vì vậy, toà đã cấp giấy chứng nhận bào chữa cho
luật sư thì đương nhiên luật sư sẽ được gặp bị cáo tại trại tạm giam (tuy
nhiên, đây cũng chỉ là quan điểm riêng). Trong khi đó, phía trại tạm giam thì
cho rằng, công văn của VKS thành phố H chỉ cho phép trích xuất bị cáo để xét xử
mà thôi. Do vậy, chỉ khi nào xét xử thì trại mới thực hiện lệnh trích xuất còn
luật sư thì chỉ khi nào có giấy chứng nhận bào chữa của VKS thành phố H thì mới
được thực hiện quyền của mình. Tuy nhiên, VKS thành phố H chỉ thực hiện quyền
tố tụng của mình đối với tội danh “Cố ý gây thương tích” còn đối với tội danh
“Mua bán trái phép chất ma tuý” thì không thuộc thẩm quyền, do vậy không thể
cấp giấy chứng nhận bào chữa về tội danh này cho luật sư được. Cuối cùng thì
luật sư không thể gặp được bị cáo cho đến ngày xét xử…
Theo
quy định của Luật Luật sư thì:
“Luật
sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa, giấy
chứng nhận người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự hoặc giấy
chứng nhận người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân
sự, vụ án hành chính (sau đây gọi chung là giấy chứng nhận tham gia tố tụng của
luật sư).
Giấy
chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư có giá trị trong các giai đoạn tố tụng,
trừ trường hợp bị thu hồi, luật sư bị thay đổi hoặc không được tham gia tố tụng
theo quy định của pháp luật.
Khi
cần liên hệ với cá nhân, cơ quan, tổ chức để thực hiện quyền, nghĩa vụ và các
hoạt động có liên quan đến việc bào chữa, bảo vệ quyền lợi của khách hàng, luật
sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư.”
Bộ luật
tố tụng hình sự cũng quy định rõ:
“Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo
giấy tờ liên quan đến việc bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà
án, phải xem xét để cấp giấy chứng nhận bào chữa cho họ để họ thực hiện việc
bào chữa…”.
Như
vậy, nếu xét về mặt lý luận thì khi có giấy chứng nhận bào chữa, luật sư sẽ
được thực hiện các quyền của mình theo quy định của pháp luật trong đó có việc
gặp gỡ bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Nhưng thực tế thì điều này không phải lúc
nào cũng được thực hiện, như tình huống đã nêu ở trên.
Vậy,
thực tế vướng mắc này cần được giải quyết như thế nào:
Theo chúng tôi, một là, cần bổ sung một điều
luật trong Bộ luật tố tụng hình sự quy định rõ về vấn đề này. Hai là, phải có
một văn bản liên tịch của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó quy định rõ
sự phối hợp và hợp quyền hạn giữa các cơ quan tố tụng với nhau trong trường hợp
cơ quan tố tụng của vụ án này thực hiện quyền tố tụng của mình đối với bị can,
bị cáo bị tạm giam về một tội khác của cơ quan tố tụng khác.
Nguồn: Theo luatsuhanoi.vn
Một số ý kiến sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố
tụng hình sự 2003
LS. Đỗ Ngọc Quang
Công ty Luật TNHH Quang Minh Nam
48 Hoàng Ngọc Phách, Đống Đa, Hà Nội
Pháp luật tố tụng hình sự nói chung và Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) nói riêng giữ vai trò rất quan trọng trong việc
thể chế hoá những quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật về tổ chức bộ
máy nhà nước và phản ánh tiến trình dân chủ hoá cuộc sống xã hội theo hướng nhà
nước có đáp ứng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền thực sự của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Do vậy, việc từng bước sửa đổi, hoàn thiện BLTTHS, vốn
được học tập và áp dụng theo mô hình nhà nước trong hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây, tại điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập với các nước
trong khu vực và thế giới hiện nay là hết sức cần thiết.
Phải thừa nhận, so với BLTTHS năm 1988,
BLTTHS năm 2003 đã có những thay đổi về thủ tục tố tụng theo hướng tăng thẩm
quyền cho các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện, xác định chính xác hơn về
quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng, mở rộng hơn
quyền của cơ quan, tổ chức, công dân tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự
v.v… . Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 với những quy phạm pháp luật phản ánh tố tụng
hình sự nước ta mang đậm dấu ấn của hình thức tố tụng thẩm vấn bằng việc xây
dựng, sử dụng hồ sơ vụ án với các chứng cứ viết để xét xử là đặc trưng cơ bản;
phương pháp tìm kiếm chứng cứ để buộc tội người bị nghi thực hiện tội phạm chủ
yếu bằng việc bắt, tạm giữ, tạm giam để thiết lập hồ sơ vụ án chứ không phải có
đầy đủ chứng cứ buộc tội rồi mới bắt, tạm giữ, tạm giam; các cơ quan tiến hành
tố tụng có quyền hạn lớn trong việc điều tra, truy tố, xét xử bằng việc có toàn
quyền quyết định khởi tố, truy tố, xét xử người phạm tội ra trước toà án; mọi
hành vi của những người tham gia tố tụng đều phải chịu sự cho phép của các cơ
quan tiến hành tố tụng v.v… .
Tất nhiên, hình thức tố tụng thẩm vấn này có
những ưu điểm nhất định, như tạo thế chủ động cho các cơ quan tiến hành tố tụng
chứng minh tội phạm và người phạm tội nhằm góp phần quan trọng trong giữ gìn an
ninh, trật tự đất nước. Nhưng nhược điểm cơ bản của hình thức tố tụng này là
thời gian giải quyết vụ án thường kéo dài (dẫn đến vi phạm thời hạn tố tụng);
chưa tạo cơ hội để những người tham gia tố tụng đưa ra được những chứng cứ
chứng minh về việc mình bị buộc tội, xét xử; vai trò của luật sư, của những
người tham gia tố tụng khác chưa được tôn trọng, bảo vệ và bị chi phối bởi các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, nhất là người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo bị hạn chế; việc tranh tụng thường chưa được bảo đảm dẫn đến tình
trạng, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng chuẩn bị
trước các quyết định của mình liên quan đến quá trình giải quyết vụ án v.v… .
Điều này làm cho tố tụng hình sự nước ta mang tính hình thức, chưa đáp ứng được
yêu cầu cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6
năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 (gọi tắt
là Nghị quyết 49), như hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù
hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công
khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người;… Nhược điểm lớn nhất
trong BLTTHS 2003 là thiếu vắng những quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động
tố tụng bảo đảm tính công khai, dân chủ; hoặc chưa có những quy phạm pháp luật
điều chỉnh sự tranh tụng giữ bên buộc tội và bên bào chữa trong bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Cho nên có thể nói, BLTTHS năm 2003 có rất
nhiều nội dung cần được bổ sung, sửa đổi theo hướng mở rộng tính công khai, dân
chủ trong tố tụng hình sự. Do phạm vi của một bài viết hội thảo mà tác giả chỉ
đề cập một số nội dung chính sau đây.
Thứ nhất, vấn đề liên quan đến luật sư và
hoạt động của luật sư.
1. BLTTHS 2003 và Luật luật sư 2006 đều quy
định rất rõ, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo
đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 11 BLTTHS); người bào chữa do người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn (khoản
1 Điều 57 BLTTHS). Luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận
người bào chữa, giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án
hình sự khi xuất trình đủ giấy tờ cần thiết, trong đó có giấy yêu cầu luật sư
của khách hàng. Thời hạn cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư không
quá ba ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác (Điều 27 Luật luật sư). Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề
nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào
chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải
nêu rõ lý do (khoản 4 Điều 56 BLTTHS).
Tuy nhiên trong thực tế, việc cấp giấy chứng
nhận bào chữa cho luật sư không phải là điều đơn giản. Theo phản ánh của nhiều
luật sư, trong đó có ý kiến của nguyên Chủ nhiệm Đoàn luật sư Hà Nội Phạm Hồng
Hải gửi Ban Nội chính trung ương, thì các cơ quan tiến hành tố tụng, chủ yếu là
Cơ quan điều tra, cản trở hoạt động của luật sư trong tố tụng hình sự. Sự cản
trở này thể hiện từ việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư. Gần như 100%
các trường hợp không bao giờ được cấp giấy chứng nhận bào chữa đúng thời hạn 3
ngày, có trường hợp kéo dài 1 năm. Mặt khác, cơ quan điều tra đòi hỏi: giấy yêu
cầu luật sư của khách hàng phải là của chính bị can chứ không phải của người
đại diện hợp pháp của bị can lựa chọn. Điều này dẫn đến, trong trường bị can
đang bị tạm giam để điều tra thì làm sao luật sư có thể tiếp xúc để lấy được
giấy yêu cầu luật sư từ chính bị can, mà phải thông qua Cơ quan điều tra. Nhiều
trường hợp, sau khi thông qua Cơ quan điều tra thì luật sư thường nhận được câu
trả lời là: bị can từ chối luật sư, hoặc bị can không có ý định mời luật sư,
hoặc bị can đã nhận rã tội trạng của mình nên không mới luật sư v.v…, trong khi
đó có đủ căn cứ xác định bị can muốn nhờ luật sư bào chữa cho mình. Việc có
người bào chữa đối với bị can đang bị tạm giam trong giai đoạn điều tra đã là
khó khăn thì làm sao có được người bào chữa đối với người bị tạm giữ, khi mà
thời hạn tạm giữ, kể cả 2 lần gia hạn tạm giữ chỉ có 9 ngày.
Do vậy, trong Bộ luật tố tụng hình sự cần bổ
sung theo hướng mở rộng hơn thời hạn cấp giấy chứng nhận bào chữa, mà không bó
hẹp chỉ 3 ngày và quy định rõ hơn việc cấp giấy chứng nhận bào chữa đối với bị
can đang bị tạm giam. Ví dụ, sửa khoản 4 Điều 56 LTTHS là: “Trong thời hạn mười
ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên
quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét,
cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối
cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do”. Bổ sung khoản 1 Điều 57 BLTTHS :
“Người bào chữa do bị can, bị cáo lựa chọn. Trong trường hợp người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam thì người đại diện hợp pháp của họ lựa
chọn”
2. Bộ luật tố tụng hình sự quy định, người
bào chữa có quyền, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; có mặt hỏi cung bị can;
có quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung
bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; có mặt trong những hoạt động điều tra
khác (Điều 58 BLTTHS). Tuy nhiên, việc gặp bị can đang bị tạm giam là điều
không đơn giản, phụ thuộc vào Điều tra viên có thời gian đi cùng luật sư vào
trại giam hay không để điều tra viên viết Giấy trích xuất bị can, trong khi đó
điều tra viên thì bận quanh năm. Việc gặp được bị can đang bị tạm giam đã hiếm,
nhưng nếu người bào chữa gặp được bị can đang bị tạm giam thì bao giờ cũng đều
có mặt điều tra viên ngồi cạnh để giám sát cuộc gặp gỡ này, mặc dù pháp luật
không quy định. Còn những quy định khác của pháp luật tố tụng hình sự như Cơ
quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để người bào
chữa có mặt khi hỏi cung bị can; hoặc người bào chữa có quyền có mặt trong một
số hoạt động điều tra khác v.v… đều chỉ mang tính hình thức và không thực hiện
được. Lý do cơ bản vẫn là Cơ quan điều tra không muốn người bào chữa có mặt
trong các hoạt động điều tra vì họ sợ rằng, người bào chữa sẽ có những hành vi
cản trở hoạt động điều tra dưới mọi hình thức. Đây có lẽ là hạn chế lớn nhất
tính công khai, dân chủ trong hoạt động tố tụng tại giai đoạn điều tra.
Việc gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam, có
mặt hỏi cung bị can; đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa
điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; có mặt trong những hoạt
động điều tra khác v.v…là quyền của người người bào chữa. Do vậy, để người bào
chữa có thể thực hiện được các quyền của mình theo pháp luật tố tụng hình sự đã
quy định, cần bổ sung, sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng:
- Cơ quan điều tra thông báo cho người bào
chữa trước 7 ngày về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can để người bào chữa có
mặt trong buổi hỏi cung bị can;
- Người bào chữa có quyền gặp bị can đang bị
tạm giam chậm nhất là 10 ngày kể từ khi bị can có lệnh tạm giam; điều tra viên
không được có mặt trong uổi gặp của người bào chữa với bị can;
- Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm trích
xuất bị can để người bào chữa gặp bị can tại phòng gặp của trại giam;
- Khi người bào chữa đề nghị hoặc khi thấy
cần thiết, cơ quan điều tra thông báo để người bào chữa có mặt trong những hoạt
động điều tra khác.
Thứ hai, vấn đề về áp dụng biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự.
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
những biện pháp ngăn chặn là cần thiết, bảo đảm cho hoạt động tố tụng được
thuận lợi và ngăn chặn người phạm tội tiếp tục phạm tội. Để tránh sự lạm dụng,
Bộ luật tố tụng hình sự không chỉ quy định chung về căn cứ áp dụng biện pháp
ngăn chặn, mà còn có những căn cứ áp dụng trong từng biện pháp cụ thể. Tuy
nhiên, thực tế áp dụng các biện pháp ngăn chặn cho thấy có nhiều vấn đề cần
được bổ sung, sửa đổi. Cụ thể:
- Căn cứ quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn
còn rất chung chung hiểu thế nào cũng được nên đã tạo những cơ sở cho các cơ
quan tiến hành tố tụng lạm dụng biện pháp ngăn chặn. Ví dụ, hiểu như thế nào là
khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội để Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án
áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn như quy định tại Điều 79 BLTTHS.
Trong khi đó lại đang có sự mâu thuẫn quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn
chặn (Điều 79) với căn cứ bắt, tạm giam (Điều 88 BLTTHS). Theo quy định tại
Điều 79 BLTTHS về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn thì khi có một trong các
căn cứ (để kịp thời ngăn chặn tội phạm; hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị
cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; hoặc khi có căn cứ
chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội; hoặc khi cần đảm bảo thi hành án)
thì mới áp dụng biện pháp ngăn chặn. Trong khi đó, tại Điều 88 BLTTHS lại quy
định, tạm giam áp dụng với bị can, bị cáo trong những trường hợp bị can, bị cáo
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng. Như vậy, việc bị
can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, mặc
dù bị can, bị cáo không có biểu hiện trốn, hoặc sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử; hoặc không tiếp tục phạm tội thì vẫn có thể bị bắt để tạm
giam. Rõ ràng, giữa quy định chung về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn và quy
định của thể căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam mâu thuẫn nhau. Các cơ quan tiến
hành tố tụng thường lựa chọn biện pháp bắt, tạm giam để tiện cho việc điều tra,
truy tố, xét xử và cũng không trái với quy định của pháp luật. Nhưng nếu thực
hiện như thế thì không đạt được mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
là biện pháp này chỉ áp dụng để phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Hay
hiểu ngược lại là, nếu vẫn có thể đạt được mục tiêu điều tra, truy tố, xét xử
thì không cần phải áp dụng biện pháp ngăn chặn.
- Các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam
được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự đều có quy định về thời hạn tạm
giữ, tạm giam. Trong trường hợp người bị kết án phạt tù thì thời hạn tạm giữ
được trừ vào thời hạn tạm giam và thời hạn tạm giam được trừ vào thời hạn phạt
tù. Tuy nhiên, đối với người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư
trú thì lại không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp
họ bị kết án phạt tù.
Thực ra, nếu so sánh thì không được chính
xác, nhưng tại Điều 31 Bộ luật hình sự có quy định về hình phạt cải tạo không
giam giữ. Khi người bị kết án hình phạt cải tạo không giam giữ thì họ được giao
cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi
người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám
sát, giáo dục người đó. Trong khi đó, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm
đi khỏi nơi cư trú được giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn để quản lý,
theo dõi họ. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời
đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn
nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp ngăn
chặn đó. Rõ ràng, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
cũng bị hạn chế các quyền công dân gần giống như hình phạt cải tạo không giam
giữ. Thế thì (Điều 31 Bộ luật hình sự quy định, người bị kết án hình phạt cải
tạo không giam giữ, nếu đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam
được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày
tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ), tại sao không quy định,
bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, nếu kết bị kết án
phạt tù lại không được trừ theo hướng: cứ 3 ngày cấm đi khỏi nơi cư trú bằng
một ngày tù. Đây là điều bất hợp lý, phải chăng pháp luật tố tụng hình sự coi
người bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là bình thường, không ảnh
hưởng gì đến quyền cơ bản của công dân.
Do đó, cần bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình
sự lần này theo hướng: bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư
trú, nếu kết bị kết án phạt tù được trừ: cứ 3 ngày cấm đi khỏi nơi cư trú bằng
một ngày tù.
- Bộ luật tố tụng hình sự quy định về các
biện pháp tạm giữ, tạm giam đều có thời hạn, tuỳ thuộc vào tính chất của tội
phạm thuộc loại ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng. Tuy nhiên, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng với bị
can, bị cáo lại không được ghi về thời hạn nên không biệt khi nào kết thúc áp
dụng biện pháp ngăn chặn này. Thông thường, Cơ quan điều tra ra quyết định cấm
đi khỏi nơi cư trú đối với bị can, nhưng khi họ được chuyển sang giai đoạn truy
tố, xét xử thì quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú vẫn có hiệu lực. Vì vậy, một
lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú được sử dụng suốt trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử. Không có trường hợp nào cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng lại ra
quyết định huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn này. Thực tế đã xảy ra trường hợp bị can
bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú vì bị nghi phạm tội về một tội phạm
ít nghiêm trọng. Nhưng đã hơn 5 năm và qua nhiều lần điều tra bổ sung, truy tố,
xét xử, sau dó lại diều tra bổ sung nên cho đến nay vẫn bị áp dụng biện pháp
ngăn chặn này bằng một quyết định của cơ quan điều tra.
Như vậy, cần thiết quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự về thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú trong từng
giai đoạn tố tụng (giống như thời hạn tạm giam), để khi chuyển giai đoạn tố
tụng, nếu thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng khác quyết định có hay
không áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp ngăn chặn này.
Thứ ba, vấn đề về khởi tố vụ án hình sự
1. Những vấn đề về khởi tố, điều tra vụ án
hình sự và quyết định truy tố được quy định tại Phần thứ hai của Bộ luật tố
tụng hình sự. Trong khoa học tư pháp hình sự phân định giai đoạn khởi tố, điều
tra nằm tại giai đoạn công tố thuộc chức năng của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm
sát. Chính Điều 23 BLTTHS quy định, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong
tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án. Trên cơ
sở kết quả công tố, Toà án tiến hành xét xử vụ án hình sự và đưa ra bản án,
quyết định. Trong Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị còn đặt ra yêu cầu bảo đảm
việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người
có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có
sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định.
Như vậy, Toà án không phải là trọng tài,
nhưng là chủ thể đứng giữa để xem xét tranh tụng tại phiên toà giữa kiểm sát
viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người
có quyền, lợi ích hợp pháp … trong xét xử vụ án hình sự. Điều này càng khẳng
định, những hành vi tố tụng liên quan đến hoạt động công tố thuộc trách nhiệm
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chứ không phải của Toà án.
Tuy nhiên, tại Điều 104 BLTTHS lại giao quyền
cho Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà
phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra; quyết định
khởi tố của Hội đồng xét xử phải được gửi tới Viện kiểm sát để xem xét, quyết
định việc điều tra. Việc quy định như thế dường như làm cho Toà án mất đi tính
khách quan trong việc “đứng giữa” để xem xét kết quả tranh tụng tại phiên toà
giữa kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn
và những người có quyền, lợi ích hợp pháp … trong xét xử vụ án hình sự, và Toà
án dường như vượt rào sang làm công việc khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra,
Viện Kiểm sát. Điều này đi ngược với tinh thần pháp luật liên quan đến chức
năng của Toà án.
Do vậy, sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự lần
này nên bỏ quy định này tại Điều 104 BLTTHS mà chỉ nên quy định: “Hội đồng xét
xử yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên
tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra; yêu
cầu khởi tố của Hội đồng xét xử được gửi cho Viện kiểm sát để xem xét, quyết
định việc khởi tố”.
Thứ tư, vấn đề thay đổi tội danh trong quyết
định khởi tố bị can
2. Điều 127 BLTTHS quy định, khi tiến hành
điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội
đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Tuy nhiên,
việc bổ sung quyết định khởi tố bị can thì không có gì phải bàn vì bị can phạm
nhiều tội chứ không phải một tội. Riêng đối với việc thay đổi quyết định khởi
tố bị can thì cần phải bàn thêm.
Nếu như khởi tố vụ án hình sự là khởi tố về
một sự việc, sự kiện, hành vi phạm tội nên nếu khởi tố chưa chính xác cũng
không ảnh hưởng gì. Còn khởi tố bị can là khởi tố về một con người bị nghi thực
hiện một tội phạm nên quyết định này liên quan đến hàng loạt các hành vi tố
tụng đụng chạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị khởi tố như việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn đối với người đó; bị khám xét nơi ở địa điểm; bị phong
toả thông tin liên lạc; bị tạm đình chỉ chức vụ và không được làm những công
việc nhất định v.v… . Cho nên, việc khởi tố bị can phải hết sức thậm trọng làm
sao để khởi tố đúng người, đúng tội. Tất nhiên, do giai đoạn điều tra vẫn là
giai đoạn tìm kiếm, thiết lập chứng cứ mà có thể việc khởi tố bị can chưa thể
chính xác ngay về tội danh pháp luật tố tụng hình sự cho phép, “khi tiến hành
điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội
đã bị khởi tố thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi quyết
định khởi tố bị can” là hợp lý.
Tuy nhiên, thay đổi quyết định khởi tố bị can
không thể tuỳ tiện vì có nhiều loại tội phạm với tính chất, mức độ khác nhau.
Việc Nguyễn Văn A bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác (Điều 104 BLHS) dẫn đến chết người (khoản 4), nhưng qua
quá trình điều tra thấy rằng, Nguyễn Văn A phạm tội giết người chứ không phải
tội danh đã khởi tố ban đầu. Trong trường hợp này, việc thay đổi tội danh là
cần thiết và hợp lý vì hai tội phạm này có cùng khách thể loại mà ban đầu, cơ
quan điều tra chưa xác định chính xác tội danh. Nhưng nếu Nguyễn Văn B bị khởi
tố về tội buôn lậu (Điều 153 BLHS), nhưng qua quá trình điều tra thì cơ quan
điều tra thay đổi tội danh thành tội tham ô (Điều 278 BLHS) thì cần phải xem
lại việc thay đổi tội danh này vì hai tội này khác nhau về khách thể loại được
xếp ở hai chương khác nhau của Bộ luật hình sự. Tội buôn lậu (Điều 153 BLHS)
đặt tại chương XVI “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”. Còn tội tham ô (Điều
278) được đặt tại chương XXI “Các tội phạm về chức vụ” tại mục các tội phạm về
tham nhũng. Tương tự như thế có trường hợp một bị can bị khởi tố về tội được
xếp ở chương các xâm phạm trật tự quản lý hành chính, nhưng sau đó cơ quan điều
tra thay đổi thành tội được xếp ở chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia v.v…
.
Việc cơ quan điều tra được quyền ra quyết
định thay đổi tội danh là cần thiết để phù hợp với hành vi phạm tội của bị can.
Tuy nhiên, việc thay đổi tội danh chỉ nên dừng lại ở nhóm tội có cùng khách thể
loại, hoặc những tội danh có những quy định về hành vi phạm tội gần nhau mà ban
đầu cơ quan điều tra khó có thể định tội chính xác. Do vậy, Điều 127 BLTTHS cần
sửa đổi theo hướng:
- Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác
định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố, mà phạm tội
khác có cùng khách thể thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay
đổi quyết định khởi tố bị can.
Trong trường hợp xác định hành vi phạm tội
của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố, mà phạm vào tội khác không có cùng
khách thể thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ điều tra
đối với bị can về tội danh đã khởi tố, ra quyết định khởi tố bị can về tội danh
mới để tiến hành điều tra.
- Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác
định hành vi phạm tội của bị can còn hành vi phạm tội khác thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố bị can.
Thứ năm, vấn đề về thời hạn trong các giai
đoạn của tố tụng hình sự.
Thời hạn trong tố tụng hình sự là thời hạn
điều tra, thời hạn điều tra bổ sung, điều tra lại; thời hạn phục hồi điều tra;
thời hạn truy tố, thời hạn chuẩn bị xét xử v.v… . Trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung thường vi phạm nhưng quy
định về thời hạn, chủ yếu tập trung vào việc trả lại hồ sơ điều tra bổ sung
nhiều lần.
Trong khi Điều 119 BLTTHS quy định về thời
hạn điều tra, thời hạn gia hạn điều tra đối với tội phạm ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng và tại khoản 6 Điều 119
quy định, khi đã hết thời hạn gia hạn điều tra mà không chứng minh được bị can
đã thực hiện tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều
tra, nhưng Điều 166 BLTTHS, khi quy định thời hạn truy tố, thời hạn gia hạn
thời hạn truy tố đối với tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng thì lại không quy định, khi hết thời hạn truy tố mà không
ra được một trong những quyết định: a) Quyết định truy tố bị can trước Tòa án
bằng bản cáo trạng; b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thì Viện Kiểm
sát phải ra quyết định đình chỉ vụ án. Điều này dẫn đến không ít vụ án bị kéo
dài quá thời hạn truy tố, mặc dù đã được gia hạnh thời hạn truy tố.
Tại Điều 121 BLTTHS quy định về thời hạn điều
tra bổ sung: trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ
sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu do Toà án trả lại
để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Viện
kiểm sát hoặc Toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai
lần. Tuy nhiên, trong Bộ luật tố tụng hình sự lại không quy định rõ Viện kiểm
sát hoặc Toà án trả lại thì là Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp nào hay Viện kiểm
sát và Toà án nói chung trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự chỉ được
trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Điều này đã dẫn đến trong
thực tế giải quyết vụ án, có trường hợp Toà án có 6 lần và Viện kiểm sát có 9
lần ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung làm cho vụ án hình sự về tội danh thuộc
loại ít nghiêm trọng, nhưng hơn 5 năm chưa giải quyết xong, gây thiệt hại
nghiêm trọng về quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo.
Bộ luật tố tụng hình sự cũng không quy định
rõ, khi hết thời hạn điều tra bổ sung mà không hoàn thành được yêu cầu điều tra
bổ sung thì Viện kiểm sát, Toà án có quyền ra quyết định đình chỉ vụ án hình sự
hay không nên vụ án thường bị đùn đẩy qua lại giữa Cơ quan điều tra, Viện Kiểm
sát, Toà án và làm cho vụ án hình sự bị kéo dài không có cách giải quyết dứt
điểm.
Từ điều này cho thấy cần thiết bổ sung, sửa
đổi Bộ luật tố tụng hình sự về thời hạn trong các giai đoạn tố tụng hình sự
theo hướng:
- Khi hết thời hạn truy tố mà Viện Kiểm sát
không ra được quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng; hoặc
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải ra quyết định
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;
- Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả
lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu
do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá
một tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung
không quá hai lần. Nếu quá thời hạn này mà mà Viện kiểm sát không ra được quyết
định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng, hoặc Toà án không ra được
quyết định đưa vụ án ra xét xử thì tuỳ thuộc vào hồ sơ vụ án đang ở cơ quan
nào, cơ quan đó phải ra quyết định đình chỉ vụ án.
Trên đây là mọt số ý kiến tham gia vào việc
bổ sung, sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Xin chân thành cám ơn.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA
BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
NCS. Nguyễn Ngọc Khanh
Trường Đại học Luật Hà Nội
1. Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc hiến định, được quy định tại Điều
132 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được ghi nhận
tại Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố
tụng hình sự. Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định:
“Người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có
nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa
của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Mục đích của quy định này nhằm bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can và bị cáo trong tố tụng
hình sự. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự bào chữa bằng việc đưa ra các chứng cứ và yêu cầu đối
với các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Theo
quy định của Điều 56 BLTTHS, người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo và bào chữa viên nhân dân. Không chỉ ghi nhận quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, Điều 11 BLTTHS còn quy định trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng là phải bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thực hiện quyền bào chữa của mình theo quy định của BLTTHS.
Thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam những năm
qua cho thấy, mặc dù quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận trong
Hiến pháp và BLTTHS, song trên thực tế, trong nhiều vụ án hình sự, quyền cơ bản
này của người bị buộc tội, đặc biệt là quyền được nhờ người khác bào chữa không
được đảm bảo thực hiện. Theo bà Tạ Thị Minh Lý, Cục trưởng cục Trợ giúp pháp lý
(Bộ Tư pháp), hơn 70% phiên toà (bao gồm cả phiên toà hình sự, dân sự, kinh
tế…) không có luật sư tham gia.[1]
Riêng đối với các vụ án hình sự, theo báo cáo của Bộ Tư pháp, số vụ án có người
bào chữa tham gia chiếm khoảng “hơn
10% so với tổng vụ án mà các Toà án đã xét xử”.[2]
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, theo bà Tạ Thị Minh Lý là do “số vụ án nhiều, trong khi đó số luật
sư hành nghề thì ít, đối tượng phải ra toà thường nghèo hoặc chưa tin cậy luật
sư”.[3]
Theo quan sát của chúng tôi, ngoài những nguyên nhân kể trên còn phải kể đến
các nguyên nhân khác như: trình độ hiểu biết pháp luật của người dân nói chung
còn thấp, trong nhiều vụ án hình sự, bị can, bị cáo không biết mình có quyền
nhờ luật sư bào chữa cho mình; các quy định của pháp luật về vấn đề này còn có
những bất cập; và ý thức của những người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo
quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa cao. Trong bài viết này chúng tôi xin
đề cập đến một số vấn đề về đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong các giai
đoạn xét xử vụ án hình sự. Cụ thể là đảm bảo sự tham gia tố tụng của người bào
chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc đảm bảo thực hiện các
quyền năng tố tụng của người bào chữa tại phiên toà.
1.
Giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được xác định từ thời điểm Toà án thụ lý hồ
sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển sang. Giai đoạn này được chia thành hai bước:
chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên toà. Tuy BLTTHS không có quy định cụ thể về
việc thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm nhưng theo tinh thần Khoản 2, Điều 58 BLTTHS, có thể hiểu người bào chữa
đương nhiên có quyền tham gia tố tụng trong suốt giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự. Theo quy định tại điểm g, khoản 2 Điều luật này, kể từ thời điểm việc
điều tra kết thúc, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài
liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa. Các cơ quan tiến hành tố
tụng (bao gồm Viện kiểm sát – ở giai đoạn truy tố và Toà án – ở giai đoạn xét
xử) có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện quyền năng này
của mình. Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua cho thấy, trong nhiều trường hợp
cán bộ Toà án không tạo điều kiện cho người bào chữa tiếp xúc hồ sơ khi vụ án
đang trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Lý do họ đưa ra có thể là người quản lý
hồ sơ bận việc hoặc đi vắng hoặc chưa được sự đồng ý của lãnh đạo. Người bào
chữa cũng có thể gặp rắc rối về thủ tục xin cấp giấy chứng nhận là người bào
chữa trong vụ án hình sự. Theo tinh thần khoản 4 Điều 56 BLTTHS, muốn trở thành
người bào chữa trong vụ án hình sự, người bào chữa phải gửi tới cơ quan tiến
hành tố tụng “đề nghị kèm
theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa”. Đối với luật sư, “giấy tờ liên quan đến việc bào chữa”
được hiểu là thẻ luật sư và quyết định của cơ sở hành nghề luật sư phân công
luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Tuy nhiên, khi luật sư
nộp cho Toà án các “văn bản liên quan” trên, trong nhiều trường hợp luật sư vẫn
bị cán bộ Toà án gây khó dễ, đặc biệt là từ khi có “quyết định miệng” của Phó
Chánh án Toà án nhân dân tối cao Đặng Quang Phương tại một Hội nghị tập huấn
BLTTHS được tổ chức năm 2004. Trong bài phát biểu của mình, ông Đặng Quang
Phương chỉ đạo: “Để được cấp
giấy chứng nhận người bào chữa, ngoài việc có thẻ luật sư, văn bản phân công
của văn phòng luật sư, các luật sư cần phải trình thêm hợp đồng dịch vụ pháp lý
giữa luật sư với khách hàng”.[4]
Chỉ đạo này ngay lập tức được nhiều toà án địa phương “quán triệt”, gây phiền
toái cho luật sư khi họ muốn tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa
trong vụ án hình sự bởi thông thường, hợp đồng dịch vụ pháp lý được ký kết giữa
khách hàng và cơ sở hành nghề luật sư chứ không ký trực tiếp với luật sư. Cơ sở
hành nghề luật sư sẽ căn cứ vào hợp đồng dịch vụ pháp lý đó và yêu cầu của
khách hàng cũng như khả năng của luật sư thành viên để phân công luật sư tham
gia tố tụng. Khi luật sư xin giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư chỉ cần
nộp cho Toà án văn bản phân công của cơ sở hành nghề luật sư chứ họ không cần “trình” cho Toà án hợp đồng
dịch vụ pháp lý ký kết với khách hàng nhân danh cơ sở hành nghề luật sư. Việc
các toà án yêu cầu luật sư “trình”
hợp đồng dịch vụ pháp lý khi xin chứng nhận người bào chữa gây bất bình trong
giới luật sư. Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đã có văn bản kiến nghị số
63/ĐLS gửi Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ, Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, các
cơ quan Toà án, Viện kiểm sát tối cao… cho rằng “các cơ quan tố tụng hiểu chưa rõ về hợp đồng dịch vụ pháp
lý, bởi hợp đồng dịch vụ pháp lý chỉ là một hợp đồng dân sự được giao kết giữa
khách hàng và văn phòng luật sư, nó không nằm trong quy định tố tụng hình sự
hoặc dân sự, do đó các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
không có quyền yêu cầu luật sư xuất trình hợp đồng này”.[5]
Đoàn luật sư TPHCM kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét chỉ đạo và
áp dụng thống nhất trong cả nước: khi tham gia tố tụng, luật sư chỉ cần xuất
trình giấy giới thiệu của văn phòng luật sư và thẻ luật sư. Trên thực tế, một
số cơ sở hành nghề luật sư gần đây đưa ra “phiếu yêu cầu luật sư” hoặc “giấy
mời luật sư”. Khi khách hàng ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với cơ sở hành
nghề luật sư, họ cũng đồng thời được yêu cầu điền thông tin vào phiếu yêu cầu
luật sư hoặc giấy mời luật sư để tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia
tố tụng. Chúng tôi cho rằng, các cơ quan chức năng cần phải có hướng dẫn thống
nhất về vấn đề này. Để tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng,
theo chúng tôi, chỉ cần yêu cầu luật sư xuất trình thẻ luật sư và quyết định
phân công tham gia tố tụng của cơ sở hành nghề luật sư. Đối với luật sư hành
nghề với tư cách cá nhân, theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Luật Luật sư
2006, họ không có con dấu, cũng không thuộc sự quản lý của cơ sở hành nghề luật
sư nào thì hợp đồng dịch vụ pháp lý có chữ ký của luật sư và khách hàng và thẻ
luật sư được coi là những văn bản cần thiết để các cơ quan tiến hành tố tụng
dựa vào đó cấp giấy chứng nhận người bào chữa.
Vấn đề thứ hai chúng tôi xin đề xuất liên
quan đến sự tham gia của người bào chữa trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đó là
khi người bào chữa đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa, cán bộ Toà án
cần phải hết sức tạo điều kiện cho người bào chữa được tiếp xúc hồ sơ vụ án,
không thể nại những lý do “vô thưởng vô phạt” để ngăn cản người bào chữa thực
hiện nhiệm vụ của mình như phần trên đã đề cập. Không riêng gì trong những vụ
án hình sự, trong các vụ án dân sự, khi luật sư muốn tiếp xúc hồ sơ trong quá
trình chuẩn bị xét xử, trong nhiều trường hợp họ cũng bị cán bộ toà án “hành”.
Ví dụ như trong vụ luật sư T. tham gia bảo vệ quyền lợi của một bên trong vụ
tranh chấp tại TAND thị xã B đầu năm 2007. Trong khi vụ án đang trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử, vị luật sư đề nghị Toà cho phép được sao chụp hồ sơ, thẩm phán
nói với luật sư “muốn chụp
hồ sơ thì tự mang máy photo đến chụp chứ toà không làm thay việc cho luật sư”.
Vị luật sư này về nhà mang máy photo đến toà nhưng lại bị vị thẩm phán bắt bẻ “không được sử dụng điện của toà”.
Lần sau đến toà, vị luật sư đành phải mang theo chiếc máy ảnh kỹ thuật số để
sao chụp hồ sơ.[6]
Theo chúng tôi, ngành toà án cần phải có những hướng dẫn cụ thể về vấn đề này
để tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa (trong tố tụng hình sự) và người
bảo vệ quyền lợi của đương sự (trong tố tụng dân sự) thực hiện nhiệm vụ của
mình trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Một vấn đề khác liên quan đến việc thực hiện
nhiệm vụ của người bào chữa trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đó là việc tiếp xúc
với bị cáo đang bị tạm giam. Điểm e, khoản 2 Điều 58 BLTTHS quy định người bào
chữa có quyền “gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam”. Đây là
một quyền năng tố tụng của người bào chữa để họ thực hiện nhiệm vụ của mình.
Ban giám thị trại tạm giam có trách nhiệm tạo điều kiện cho luật sư thực hiện
quyền năng này của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, khi người bào chữa muốn gặp
bị cáo đang bị tạm giam, đôi khi họ gặp phải những khó khăn gây ra bởi cán bộ
trại tạm giam như không bố trí địa điểm gặp hoặc hạn chế thời gian gặp. Đây
cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của người bào
chữa trong tố tụng hình sự. Chúng tôi cho rằng ngành Công an cần có văn bản chỉ
đạo cán bộ trong ngành nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ của mình đúng pháp luật,
đảm bảo quyền của người bị tạm giam và tạo điều kiện cho người bào chữa thực
hiện tốt nhiệm vụ của mình.
1.
Theo
quy định của Điều 190 BLTTHS, người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên toà để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Trong trường hợp không thể có mặt
tại phiên toà, người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Toà án. Nếu
người bào chữa vắng mặt Toà án vẫn mở phiên toà. Trong trường hợp bắt buộc phải
có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS mà người bào chữa
vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà. Tại phiên toà, người bào chữa
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng việc tham gia xét hỏi và tranh
luận với Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng khác. Có thể nói tại
phiên toà, vai trò của người bào chữa thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết. Bởi vậy,
người bào chữa thường tận dụng tối đa cơ hội để được đặt câu hỏi với bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác và tham gia tranh luận nhằm làm sáng tỏ các
tình tiết có lợi cho bị cáo. Tuy nhiên, trên thực tế, khi tham gia phiên toà,
không phải lúc nào người bào chữa cũng được tạo điều kiện thuận lợi để thực
hiện chức năng của mình. Họ thường vấp phải những cản trở từ phía người tiến
hành tố tụng, đặc biệt là thẩm phán chủ toạ phiên toà.
3.1. Trong thủ tục xét hỏi.
Khoản 2 Điều 207 BLTTHS quy định về trình tự xét hỏi như sau: “Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên
tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có
quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng
tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 207
BLTTHS, khi xét hỏi, người có quyền đặt câu hỏi đầu tiên là Thẩm phán,
sau đó đến Hội thẩm, rồi đến Kiểm sát viên. Chỉ sau khi những người tiến hành
tố tụng kết thúc việc xét hỏi thì người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của
đương sự mới có quyền đặt câu hỏi. Trên thực tế, các câu hỏi đối với người bị
xét hỏi đại đa số được đặt ra bởi Thẩm phán, Hội thẩm và Kiểm sát viên. Khi
những người này tiến hành xét hỏi, thông thường chủ toạ phiên toà không khống
chế về mặt thời gian nhưng khi người bào chữa đặt câu hỏi với người bị xét hỏi,
họ thường bị chủ toạ phiên toà ngắt lời và hạn chế thời gian hỏi.[7]
Một câu hỏi đặt ra ở đây là: vai trò của Thẩm phán (và cả Hội thẩm) trong thủ
tục xét hỏi nói riêng, tại phiên toà nói chung là gì? Họ là những người “trọng
tài” đứng ra phân xử giữa bên buộc tội và bên gỡ tội hay họ là những người xét
hỏi? Những người ủng hộ hệ thống tố tụng xét hỏi có thể biện hộ rằng, tại phiên
toà, Thẩm phán đóng vai trò là trọng tài nhưng việc họ có quyền xét hỏi không
mâu thuẫn với việc họ thực hiện vai trò của người trọng tài. Không những thế,
việc xét hỏi còn có thể giúp họ đưa ra được quyết định đúng đắn về việc giải
quyết vụ án. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, quy định này chưa thực sự
hợp lý. Theo chúng tôi, thủ tục xét hỏi tại phiên toà cần có sự cải tiến.[8]
Gần đây, trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam, một số tác giả đã đề
xuất sửa đổi các quy định của BLTTHS về thủ tục xét xử theo hướng quy định chủ
thể của việc xét hỏi chỉ là Kiểm sát viên và người bào chữa, người bảo vệ quyền
lợi của đương sự.[9]
Thẩm phán và hội thẩm không tham gia xét hỏi mà chỉ đặt câu hỏi khi thấy cần
thiết làm sáng tỏ các câu trả lời của người bị xét hỏi. Chúng tôi đồng ý với đề
xuất này. Cụ thể, chúng tôi kiến nghị sửa đổi trình tự xét hỏi tại phiên toà
(khoản 2 Điều 207) theo hướng quy định khi xét hỏi Kiểm sát viên hỏi trước rồi
đến người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Thẩm phán và Hội
thẩm chỉ đặt câu hỏi khi thấy cần làm rõ các tình tiết trong lời khai của người
bị xét hỏi.
3.2.
Trong thủ tục tranh
luận. Có thể nói, vai trò của người bào chữa trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo tại phiên toà được thể hiện tập trung nhất
trong thủ tục tranh luận tại phiên toà. Theo quy định tại Điều 217 BLTTHS, sau
khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, nếu bị cáo có người bào chữa thì
người bào chữa trình bày bản bào chữa của mình cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ
sung ý kiến bào chữa. Theo quy định của Điều 218 BLTTHS, người bào chữa có
quyền trình bày ý kiến của mình về bản luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề
nghị của mình. Họ có quyền đáp lại ý kiến của Kiểm sát viên và của những người
tham gia tranh luận khác. Khi Kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham
gia tranh luận khác tranh luận, chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian
tranh luận, tạo điều kiện để người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến
nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Để đảm bảo việc
tranh luận tại phiên toà, Điều 218 BLTTHS quy định chủ toạ phiên toà có quyền
đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa
được Kiểm sát viên tranh luận.
Thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam những năm
qua cho thấy, kể từ khi Nghị Quyết 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2001 của Bộ
Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới” và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “về chiến lược cải
cách Tư pháp đến năm 2020” được ban hành, thủ tục tranh tụng tại phiên toà hình
sự được coi trọng hơn rất nhiều so với trước đây và người bào chữa được tạo
điều kiện tốt hơn để tham gia tranh tụng với Kiểm sát viên và những người tham
gia tố tụng khác tại phiên toà. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, việc áp
dụng các quy định của BLTTHS về thủ tục tranh tụng tại phiên toà còn tồn tại
một số bất cập. Cụ thể là:
Thứ nhất, khi người bào chữa trình bày bản
bào chữa của mình, họ có thể bị chủ toạ phiên toà hạn chế về mặt thời gian. Ví
dụ, trong phiên xử Bùi Tiến Dũng ngày 3 tháng 8 năm 2007, chủ toạ phiên toà hạn
chế mỗi người bào chữa chỉ được nói trong 10 phút. Luật sư Phạm Hồng Hải đứng
dậy phát biểu: “Theo quy định, chủ toạ không được hạn chế thời gian tranh luận
của các luật sư. Còn nếu tình trạng này tiếp tục, chúng tôi sẽ không tham dự
tiếp”.[10]
Thứ hai, có những trường hợp, khi người bào
chữa trình bày, hội đồng xét xử tạo điều kiện cho họ trình bày nhưng sau đó
tuyên bố “không chấp nhận ý kiến của người bào chữa” mà không nêu lý do không
chấp nhận. Theo kết quả khảo sát năm 2006,[11]
kể từ khi Nghị quyết 08/NQ-TW được ban hành, tình trạng này không còn nhiều
song thỉnh thoảng vẫn xảy ra trong thực tế.
Thứ ba, khi người bào chữa đưa ra vấn đề yêu
cầu tranh luận với Kiểm sát viên, trong nhiều trường hợp, Kiểm sát viên không
đáp lại ý kiến của người bào chữa và chủ toạ phiên toà cũng không yêu cầu Kiểm
sát viên đối đáp với người bào chữa.[12]
Theo quy định tại Điều 218 BLTTHS, chủ toạ phiên toà có quyền đề nghị Kiểm sát
viên phải đáp lại ý kiến của người bào chữa nếu ý kiến đó chưa được Kiểm sát
viên tranh luận. Tuy nhiên, vì đây là quyền của chủ toạ phiên toà nên chủ toạ
phiên toà có thể thực hiện, có thể không. Theo chúng tôi luật nên quy định đây
vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của chủ toạ phiên toà, có nghĩa là khi người bào
chữa hoặc người tham gia tranh luận khác đưa ra vấn đề yêu cầu tranh luận với
Kiểm sát viên, nếu vấn đề đó chưa được tranh luận mà Kiểm sát viên không tự
nguyện tham gia tranh luận, chủ toạ phiên toà phải yêu cầu Kiểm sát viên đáp
lại ý kiến của người bào chữa hoặc người tham gia tranh luận khác. Có như vậy
mới đảm bảo việc tranh luận công khai tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư
pháp.
Để nâng cao hiệu quả xét xử nói chung, hiệu
quả của thủ tục tranh tụng tại phiên toà nói riêng, chúng tôi kiến nghị: Điều
218 cần sửa đổi theo hướng quy định khi người bào chữa và những người tham gia
tố tụng khác đưa ra các tình tiết yêu cầu Kiểm sát viên tranh luận, Kiểm sát
viên có nghĩa vụ phải đáp lại ý kiến đó nếu những ý kiến đó chưa được Kiểm sát
viên tranh luận và giao trách nhiệm cho chủ toạ phiên toà phải đảm bảo việc đối
đáp giữa Kiểm sát viên và người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.
4. Có thể nói rằng, thời gian gần đây, kể từ
khi Nghị Quyết 08 của Bộ chính trị được ban hành năm 2001, vai trò của người
bào chữa trong tố tụng hình sự nói chung, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình
sự nói riêng dần dần được đánh giá cao hơn. Người bào chữa được tạo điều kiện
tốt hơn để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can,
bị cáo. Trong giai đoạn xét xử, nhất là trong những vụ án điểm được tiến hành
theo tinh thần cải cách tư pháp, tiếng nói của người bào chữa dường như có
trọng lượng hơn trước đây rất nhiều. Đó là một trong những thắng lợi của Nghị
quyết 08. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng hình sự những năm qua cũng cho thấy,
trong nhiều vụ án, khi tham gia thủ tục tố tụng tại phiên toà, người bào chữa
vẫn gặp phải những trở ngại nhất định. Tình trạng đó xảy ra do nhiều nguyên
nhân như các quy định về thủ tục xét hỏi chưa hợp lý, quy định về trách nhiệm
của chủ toạ phiên toà trong thủ tục tranh luận chưa chặt chẽ. Và trên hết là ý
thức của thẩm phán trong việc tạo điều kiện cho người bào chữa được tham gia
các thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử. Chúng tôi đề xuất các cơ quan có
thẩm quyền cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho người bào chữa tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và sửa đổi
một số quy định của BLTTHS về thủ tục xét hỏi (Điều 207) và tranh luận tại
phiên toà (Điều 2008) nhằm đề cao hơn nữa vai trò của người bào chữa tại phiên
toà và tạo điều kiện cho họ thực hiện chức năng cao cả của mình là bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.